Sử dụng các hệ số khác nhau ở hai phần để xét tốt nghiệp và xét tuyển đại học: Để xét tốt nghiệp nên chọn hệ số cao cho phần A và hệ số thấp cho phần B (ví dụ 3A và 1B)

Chỉ có một đề thi chung cho cả giáo dục phổ biến và giáo dục thẳng tính, nhưng nên cho thêm điểm ưu tiên đối với giáo dục thẳng khi xét tốt nghiệp. Những người làm thuê tác thi đều nhớ rõ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (lần I) năm 2007 diễn ra trong không khí tương đối găng, nhưng nghiêm túc, đúng quy chế.
Đề thi nên có hai phần, tạm đặt tên là phần A và phần B, mỗi phần nên chia ra nhiều câu hỏi nhỏ để bao quát được chương trình: Phần A chiếm 50% điểm bài thi, bao gồm các câu hỏi thẩm tra tri thức kỹ năng chuẩn, chỉ đề nghị thí sinh nhận biết, hoặc nếu có thông hiểu và áp dụng thì chỉ ở chừng độ đơn giản, không quá một bước tư duy, xem; Phần B chiếm 50% điểm bài thi bao gồm các câu hỏi yêu cầu học sinh phải tường, vận dụng với nhiều bước tư duy, tính hạnh.
Nếu lãnh đạo Bộ có gan góc, tạo điều kiện để học sinh nghèo vùng sâu có được thời cơ ngang bằng với học trò thị thành khi xét tuyển vào đại học và cao đẳng, chỉ cần lưu ý một đôi chi tiết mang tính kĩ thuật để bảo đảm cho kì thi diễn ra an toàn, nghiêm chỉnh, đáp ứng được cả hai yêu cầu nâng cao dần tỉ lệ tốt nghiệp và đủ tin cậy để tuyển sinh đại học.
Tất tật các khâu từ ra đề, coi thi, chấm thi … đều phải có sự tham dự của các trường Đại học và Cao đẳng với tỉ lệ hợp, để bảo đảm lợi quyền tuyển sinh đúng đối tượng cho các trường này. Đầu tiên, xin bắt đầu với vài con số thống kê tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ quát từ năm 2006 đến nay (nguồn từ các thưa kết quả thi tốt nghiệp hằng năm của Bộ giáo dục & đào tạo): Năm 2006 tỉ lệ tốt nghiệp suýt soát 94 % Năm 2007tỉ lệ tốt nghiệp ngót 67 % Năm 2008 tỉ lệ tốt nghiệp ngót 76% Năm 2009 tỉ lệ tốt nghiệp ngót nghét 84% Năm 2010 tỉ lệ tốt nghiệp xấp xỉ 93% Năm 2011 trở đi tỉ lệ tốt nghiệp xấp xỉ 95% (Các năm 2007 và 2008 chỉ tính tốt nghiệp lần I.
Từ 2011 trở về sau tỉ lệ tốt nghiệp giữ vững ở mức trên 95%) Những con số thống kê trên đây nói lên điều gì? Năm 2006 có thể xem là “đêm trước” của “hai không”, thụ động và bệnh thành tích đã lên đến cực điểm, tỉ lệ tốt nghiệp ở hầu hết các địa phương đều cao ngất ngưởng khiến dư luận băn khoăn.
Căn cứ vào điểm sàn, các trường đại học và cao đẳng tự quyết định điểm chuẩn và thông tin thí sinh trúng tuyển ước muốn 1 và thông báo xét tuyển nguyện vọng 2, 3…. Để lấy điểm sàn tuyển sinh đại học và cao đẳng nên chọn hệ số cao cho phần B và hệ số thấp cho phần A. Mọi học sinh có điểm từ điểm sàn trở lên đều có quyền đăng kí xét tuyển đại học và cao đẳng thích hợp với mức điểm chuẩn của các trường ban bố.
Bộ đưa ra nhiều giải pháp, trong đó quan yếu nhất là tăng cường công tác thanh tra, với sự góp sức của các trường đại học và cao đẳng trong cả nước.
Thí sinh đủ điều kiện tốt nghiệp nhưng chưa ưng với điểm xét tuyển có thể tự tìm chỗ học và đăng kí thi lại năm sau để lấy kết quả mới với hoài hoàn toàn tự túc.
Hình thức thi có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm khách quan, tuy nhiên nên chuyển dần các môn còn lại sang trắc nghiệm khách quan để giảm tổn phí và tăng tính khách quan. Rất đáng tiếc là đến năm 2009 và các năm tiếp theo, có nhẽ Bộ đã yên tâm với thành tích thực hiện “hai không”, hoặc do chi phí quá lớn cho công tác thanh tra, hoặc vì một lí do nào khác nên trong các kì thi từ năm 2009 đến 2011, lực lượng thanh tra của các trường đại học, cao đẳng giảm hẳn, không còn “cắm chốt” tại các hội đồng thi như hai năm trước, nhiều địa phương lại có tỉ lệ tốt nghiệp tăng vọt, kéo theo tỉ lệ chung cả nước vươn lên rõ rệt, khiến cho chủ trương tổ chức một kì thi nhà nước (chung cho cả xét tốt nghiệp và tuyển sinh đại học cao đẳng) không nhận được sự đồng thuận của dư luận tầng lớp và của các trường đại học.
Sau cú sốc về tỉ lệ tốt nghiệp năm 2007, nhiều trường Trung học phổ quát đã tăng cường phụ đạo, bồi bổ học sinh yếu kém, nên đến kỳ thi năm 2008, mặc dầu công tác coi thi nghiêm chỉnh không kém năm 2007; con số tốt nghiệp vẫn nhích lên thêm 9%, phản chiếu khá chuẩn xác thay nâng cao chất lượng dạy và học của các địa phương.
Số môn thi vẫn giữ ổn định sáu môn, ba môn tự nhiên và ba môn tầng lớp, trong đó Ngữ văn và Toán là thắt, bốn môn còn lại được thông tin vào cuối Tháng Ba như bây giờ. Ảnh minh họa Năm 2007, tỉ lệ tốt nghiệp hốt nhiên giảm đến 27% so với năm trước là do chủ trương và quyết tâm thực hiện thực hiện “hai không” của Bộ theo ý thức Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 8 tháng 9 năm 2006 của Thủ tường chính phủ về chống bị động và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục.
Những giả thiết trên đây cho thấy chỉ tổ chức một kì thi quốc gia là khả thi, có thể thử nghiệm ở các địa phương ngay trong kì soát học kì I năm học 2013-2014, trước khi chính thức ứng dụng vào mùa thi tới.
Là người đã có thâm niên chủ toạ hội đồng coi thi tốt nghiệp Trung học phổ biến, nhiều năm gắn bó với học sinh các trường vùng sâu. Tôi thiết nghĩ việc chỉ tổ chức một kì thi quốc gia như Bộ đã từng chủ trương là hoàn toàn khả thi và có thể thực hành được ngay. Các trường đại học và cao đẳng có đề nghị năng khiếu hoặc những yêu cầu đặc biệt khác, nên tổ chức thi khiếu trước khi thi tốt nghiệp ít nhất hai tháng và thông tin sớm kết quả cho thí sinh, có thể thi theo cụm tỉnh, hoặc liên tỉnh và do các trường tự thu xếp.
Thí sinh được đăng kí chỉ một ước muốn đại học hoặc cao đẳng trước khi thi (được ưu tiên xét tuyển sớm muộn khi có kết quả). Nội dung thi nên bao quát tất tật tri thức trọng tâm của cấp trung học phổ thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét