Ông còn từng khẳng định mong muốn quay cảnh fade-out cuối cùng của điện ảnh câm
Trong hơn 100 năm hình thành và phát triển của điện ảnh thế giới, hơn tuốt luốt các đạo diễn khác, Ozu có triết lý và phong cách riêng biệt.
Tuy nhiên việc coi Ozu như một đạo diễn tôn thờ truyền thống Nhật chỉ là một cách nhìn: có nhà phê bình đã nhận xét rằng phim Ozu phê phán truyền thông lỗi thời chứ không ủng hộ chúng. Tất nhiên, Ozu có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới. Như vậy, trong cả chặng đường làm phim của phim của mình, dù là phim câm hay phim tiếng, phim đen trắng hay phim màu, trước chiến tranh hay sau, Ozu đều để lại những tác phẩm độc đáo và quan yếu cho điện ảnh.
Một năm sau, ông đạo diễn bộ phim đầu tay Lưỡi Gươm Sám Hối (Blade of Penitence ). Nếu so với các phim hành động samurai của Akira Kurosawa thì phim Ozu thật giản đơn và chậm chạp, tới độ nhiều nhà phê bình đã từng gọi ông là “vị thiền sư” hay “bậc thầy tu tịnh” của điện ảnh, nhưng những bình chưa thật xác thực nếu ta coi xét kĩ lưỡng phim của ông. Năm 1952, ông quay Hương vị cơm trà sau khi chỉnh sửa đôi chỗ kịch bản.
Năm 1923, ông được tuyển làm trợ lý quay phim cho hãng phim Shochiku. ”), Thoảng qua tương tư ( Passing Fancy ) - 1933, Cô gái trong lưới luật ( Dragnet Girl ) - 1933, Câu chuyện phù thảo (Story of Floating Weeds ) - 1934), Quán trọ ở Tokyo (An Inn in Tokyo ) - 1935. Vãn Xuân là bộ phim trước tiên trong bộ ba phim Noriko, trước Sớm hạ (Early Summer, tựa đề Nhật có tức là việc gặt lúa mà thường xảy ra vào đầu mùa hè) và Câu chuyện Tokyo.
Do phim Ozu thường không tỏ thái độ đen trắng về những chủ đề này, khán giả được tự hiểu theo ý mình và thường có những nghĩ suy khác nhau.
Ozu bắt đầu làm phim vào năm 1923 khi được tuyển làm trợ lý quay phim cho hãng Shochiku và vào năm 1926 được bổ nhiệm lên làm trợ lý đạo diễn.
Poster phim Một chiều thu Sau khi chiến tranh chấm dứt, phim Ozu có vẻ ít đề cập vấn đề xã hội và biến động lịch sử
Đây cũng là bộ phim trước hết sau chiến tranh của Ozu dành được thành công. Khán giả thường coi Ozu không đa dạng vì cứ làm đi làm lại một số chủ đề. Porter. Trong cả ba phim, diễn viên thân thuộc Hara Setsuko đều thủ vai nữ chính tên Noriko (tuy nhiên ba nhân vật này là ba người khác nhau). Niềm đam mê ấy tất nhiên góp phần hình thành tư duy điện ảnh của ông. Ông cũng đã bắt đầu làm những bộ phim về gia đình, về quan hệ giữa cha, mẹ và con, giữa các đời người Nhật, như Hợp xướng Tokyo, Mặc dù con đã ra đời”, hay Câu chuyện Phù Thảo.
Khi nhắc tới phong cách phim của mình, Ozu nói: “Trong đầu, tôi đã lên hệ thống làm phim của chính mình mà không bắt chước các đạo diễn khác.
Để đáp lại chỉ trích này, Ozu ví mình với một người chuyên làm đậu phụ: “Ta có thể đi ăn nhiều loại thức ăn đến từ nhiều nơi trên thế giới trong một nhà hàng Nhật ở cửa tiệm bách hóa, thế nhưng sự quá đa dạng này lại làm giảm chất lượng và hương vị đồ ăn.
” Quả nhiên, phong cách của Ozu ngày càng tinh xảo: dù dựa trên kịch bản về những câu chuyện thông thường và thậm chí là nhỏ nhặt, phim ông triền miên chất thơ, nỗi buồn man mác của con người Nhật vừa muốn giữ lấy truyền thống dân tộc vừa phải sống trong thời đại thay đổi, những gia đình phải giải quyết mâu thuẫn đời và hàn gắn vết thương ý thức sau chiến tranh, chu kỳ thế cuộc như bốn mùa của năm hay ba buổi một ngày.
Tuy nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt như Cô gái trong lưới luật - một bộ phim gangster đậm ảnh hưởng của Hollywood thời đó.
Thời trẻ, Ozu say mê điện ảnh câm của Mỹ, thẳng tuột bỏ học để đi xem phim và thậm chí còn một lần khoe là đi thi đầu vào trung học ở Kobe cốt chỉ để được dự buổi chiếu của Người tù Zenda ( The Prisoner of Zenda ) của đạo diễn Hugh Ford và Edwin S.
V) tái hiện nhiều và trội hơn. Mặc dầu phim tôi có về na ná như nhau, tôi luôn nuốm tả những điều mới, và tôi có quan tâm tới từng bộ phim mình làm
Nhiều người khi tiếp cận và đánh giá phim Ozu thường chọn lựa những bộ phim ra đời vào khoảng giữa sự nghiệp của ông là Câu Chuyện Tokyo (1953), Vãn Xuân ( Late Spring , 1949) đều là những kiệt tác điện ảnh nhưng không phản chiếu toàn cảnh 45 năm hoạt động điện ảnh của ông.
Ông là nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn Nhật đời sau, như những đạo diễn thập niên 60s tiêu biểu như Imamura Shohei hay Yoshida Yoshishige.
Đoạn sau sự nghiệp, phim Ozu không rườm rà cốt chuyện, giản lược tính kịch, và giao hội vào những phút giây giản dị như buổi nhậu của những người cùng cơ quan hay cuộc chuyện trò giữa hàng xóm hàng xóm, thế nên nhìn chung vỡ hoang tính nhân chân thật và gần gụi với đời thường khán giả hơn hẳn các phim thường nhật.
Vì ông khởi nghiệp khá sớm, từ thời kì phim câm ở Nhật Bản, Ozu có tận 35 phim câm trong số hơn 50 phim ông đạo diễn.
Thế nhưng nếu chú ý, ta sẽ thấy hơi hám thời đại trong không gian khép kín của những bộ phim này. Việc cảm nhận phim Ozu càng huých: ở độ chín của nghề, phim ông phản ảnh tâm sự người xem như một mặt gương hoặc mặt hồ gợn sóng.
Tôi giống như một họa sĩ vẽ đi vẽ lại một bông hồng. Giống như hàng ngàn người Nhật khác, mùa thu năm 45, ông làm tù binh chiến tranh và những năm sau đó sống dưới ở thời kỳ Mỹ đóng quân ở Nhật Bản.
Ozu cũng bị cuốn vào dòng xoáy lịch sử. Trong số đó, sau các biến động lịch sử như thế chiến thứ 2, chỉ còn một vài phim chưa bị mất và được phát hành rộng rãi, tiêu biểu là Hợp Xướng Tokyo ( Tokyo Chorus ) - 1931, Mặc dù con đã ra đời ( I was born, but ) -1932, dịch theo tựa đề Nhật Bản là: “Một cuốn truyện tranh cho người lớn: Con đã ra đời, nhưng.
Bạn có thể học được từ ông chứ không ăn trộm phong cách của ông được. Từ đây cho đến cuối sự nghiệp, Ozu tụ hợp tinh sự nghiệp của mình bằng cách làm nhiều phim có chủ đề và cảnh tượng rưa rứa nhau: người cha, người mẹ, con cháu, láng giềng, vợ chồng cụ hòa giải giá trị truyền thống và đời sống đương đại.
Đạo diễn Ozu Yasujiro Khác với Hollywood, ở Nhật Bản phim câm vẫn được sinh sản nhiều vào thập niên 30, Ozu lúc ấy có phần quan ngại việc chuyển sang làm phim có tiếng vì biết rằng sẽ phải thay đổi nhiều kĩ thuật làm phim (ngay như việc không cần bảng nội đề nữa cũng đổi thay cả thảy quá trình dựng phim)
Bộ ba phim này đều là phim đen trắng nức tiếng, giống phần đông phim tiếng của Ozu, có phần chậm chạp hơn, gồm hầu hết là cảnh tĩnh (tuy nhiên Sớm hạ cũng có một đôi cảnh động ngoại lệ); những nét thẩm mỹ nhen trong những phim trước như các hình ảnh tĩnh vật (biển hiệu, ấm trà, quạt máy, mâm cơm gia đình, v.
Ngay từ lúc đó, phim của ông có sự dị biệt so với các đạo diễn đương đại: Mặc dù là phim câm nhưng những phim này trọng đối thoại hơn hẳn các phim câm của Mỹ. Bộ phim không được ban kiểm duyệt nghiêm ngặt chuẩn y. Xem phim câm Ozu, ta cũng có thể theo dõi quá trình ông hình thành phong cách độc đáo của mình.
Năm 1927, ông giả phim đầu tay Lưỡi gươm Sám Hối ( Blade of Penitence ). Như trong Vãn Xuân, các nhân vật có thoáng qua nhắc tới việc nhân vật chính Noriko đã từng ngã bệnh vì bị bắt lao động sau chiến tranh. Nếu xem những phim câm của Ozu, ta sẽ thấy sự ảnh hưởng của những bậc thầy phim câm như Charlie Chaplin, Ernst Lubitsch, Harold Lloyd.
Chẳng hạn, thời đó Ozu làm một lượng lớn phim hài với những trò đùa hình thể- đây là có nhẽ là điểm dễ nhận ra nhất trong phim Chaplin.
Cảnh trong phim Mặc dù con đã ra đời Hiện tượng này không hẳn là không có cơ sở khách quan. Đôi lần ông còn trở lại các chủ đề đã xuất hiện ở phim trước chiến tranh nhưng theo một cách tinh tế hơn, trên một giác độ mới: Tảo xuân (Early Spring , 1956) đề cập đến cuộc sống người làm mướn sở, Hoàng hôn Tokyo (Tokyo Twilight , 1957) có những cảnh của sòng mạc chược ở khu phố nghèo.
Làm phim cũng tương tự như vậy. Ca Thùy. Những năm sau đó, Nhật Bản quân đội hóa tổ quốc, biến động chính trị thụ động và bắt đầu công cuộc mở rộng cương vực trước khi tham gia vào Thế Chiến Thứ 2
Họ vừa phản ứng lại những nguyên lý của ông vừa học từ ông. Các tác phẩm nổi danh của ông thường xoay quanh đề tài gia đình, gồm các hình ảnh mộc mạc của đời thường và có nhịp điệu từ tốn.
Đạo diễn Kurosawa Kiyoshi đã nhận xét rằng khi làm phim về gia đình thì đạo diễn Nhật Bản khó có thể tránh bắt chước Ozu. Thế nhưng vào năm 1936, Ozu cũng giả tảng phim có tiếng đầu tay - Người con trai độc nhất vô nhị ( The Only Son ).
Thậm chí ông còn làm lại phim cũ của mình (remake): Chào buổi sáng ( Ohayo , 1959) có nhiều điểm tương đồng với Mặc dù con đã ra đời , Phù Thảo ( Floating Weeds , 1959) là phim màu gần sát với phim câm Câu chuyện Phù Thảo (1934), những phim như Thu muộn (Late Autumn , dịch nguyên tựa đề Nhật ra là “Một ngày thu an hòa”, 1960), Một chiều thu (An Autumn Afternoon , dịch nguyên tựa đề ra là “Hương vị cá dao”, 1962, phim rốt cuộc của Ozu) có cốt chuyệt hệt như Vãn Xuân , chỉ thay đổi một tí tình tiết và diễn viên.
Đạo diễn người Đức, tác giả của những bộ phim tiêu biểu: Paris, Texas , Wings of Desire, Pina đã nhận xét về Ozu thế này: “Không gì dễ bằng việc trộm cắp từ chính kẻ cắp, nhưng Ozu không phải là một kẻ cắp. Những bộ phim này cũng tụ họp vào con người thời đại khủng hoảng những năm 30, mối lo thấp thỏm về miếng cơm manh áo (như trong Hợp xướng Tokyo ), đời sống của người làm công sở ( mặc dầu con đã ra đời ), học trò nghèo túng, tầy vặt cũng như xã hội tư sản.
Trước đó, các phim Ghi chép của một quý ông thuê nhà ( The Record of A Tenement Gentleman ) và Gà mái trong gió (A Hen in The Wind ) không được đánh giá cao. Năm 1926, ông được thăng chức lên làm trợ lý đạo diễn.
” Ozu Yasujiro sinh ngày 12 tháng 12 năm 1903, mất ngày 12 tháng 12 năm 1963. ” Mặc dù ai khi xem Ozu, đặc biệt là những phim đen trắng và phim màu ở đoạn sau sự nghiệp ông, đều công nhận rằng ông khác người, kể cả khi so sánh với những đạo diễn phim nghệ thuật táo bạo khác, Ozu không hẳn là hoàn toàn không học hỏi các đạo diễn khác.
Để nói về sự khác biệt của Ozu ta phải đọc nhiều sách và nghiên cứu phim ông thật tận tường (một phần vì sao nhiều viện sĩ thích viết về Ozu), nhưng cũng vì lẽ đó mà khi tiếp cận phim của ông, người xem thường không biết phải mong đợi điều gì và hay thấy hụt hẫng.
Năm 37, ông đi đấu tranh ở Nam Kinh và sau đó vào năm 39 viết kịch bản cho bộ phim Anh ấy đi Nam Kinh (He's going to Nanking ), sau này đổi thành Hương vị cơm trà ( The Flavor of Green Tea over Rice ) xoay quanh bữa cơm giữa hai vợ chồng sau khi người chồng nhận được lệnh tòng ngũ. Ozu với Hara Setsuko trên trường quay phim Vạn Xuân Nhiều người lại nghĩ rằng Ozu và các nhân vật của ông ủng hộ truyền thống và chống cự lại đổi mới.
Số bậc thầy trong điện ảnh thế giới đến gần được với Ozu ở điểm này đếm có lẽ không quá một bàn tay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét