Phim Đời cát là câu chuyện trái ngang của những con người sau cuộc chiến

Còn mặt tự giác là việc chủ động đưa tinh thần dân tộc vào phim nhằm tạo những giá trị cao về nội dung và nghệ thuật. Theo đó, ở mặt tự phát, nhà làm phim đề đạt hiện thực cuộc sống của quần chúng theo suy nghĩ và tình cảm khởi hành từ “gen” dân tộc của mình. Cũng như các loại hình văn chương nghệ thuật khác, tính dân tộc trong tác phẩm điện ảnh Việt Nam biểu thị ở rất nhiều khía cạnh, nhưng tụ hội rõ nhất ở ba mặt: Tư tưởng, tâm hồn và những nét sinh hoạt của một dân tộc.
Đó cũng là niềm mong ước của khán giả. Tính nhân văn là một điểm mạnh của phim truyện, có sức mạnh chinh phục mang tính toàn cầu.
Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống linh tính trong mối quan hệ khắn khít với truyền thống dân tộc.
Hơn nữa, một số phim của ta chưa hấp dẫn bởi cách làm nặng về hô hào khẩu hiệu theo những công thức chung vốn đã định hình “ta thắng địch thua, ta tốt địch xấu”.
Ba nhân vật bằng những điểm tựa khác nhau, đều hướng về quê nhà, đều một long Thương nhớ đồng quê da diết: người vượt biên sống nơi đất khách quê người, nay trở về thăm lại làng xưa với bao nỗi niềm Thương nhớ; người thì thủ phận sống tảo tần, thầm lặng chờ chồng đi xa làm ăn; và người thì gắn một thời tuổi thơ với đồng quê, đến khi nhập quân ngũ, vẫn không sao dứt được mối thương cảm đồng quê da diết…Phim Sống trong sợ hãi nói về căn số người lính Việt Nam cộng hòa đi gỡ bom mìn để sống.
Những phẩm chất được phản ánh trong phim can hệ đến đặc điểm của tính dân tộc và tính hiện đại. Đạo diễn Nguyễn Thanh Vân tạo ra một Đời cát rất nhẹ nhàng song những thương tổn thì không kể xiết.
Phim truyện phục vụ nhiệm vụ chính trị của dân tộc là đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập và thống nhất đất nước. Cũng cùng chủ đề trên, nhưng khi có “độ lùi” thời gian, tách khỏi cuộc chiến, những tác phẩm điện ảnh đó gạn lọc để nhìn cuộc chiến tĩnh tâm và có chiều sâu hơn vì có được vốn sống và sự trải nghiệm.
Sự hòa đồng giữa con người với tự nhiên đã tạo nên chất thơ trong nhiều bộ phim thể hiện đậm đặc hoặc lấp ló nét trữ tình. # Câu chuyện về đời sống hàng ngày của một gia đình nghèo ở Hội An và cuộc tranh đấu để sinh tồn trong tình cảnh khó khăn… Là giang sơn “Ra ngõ gặp anh hùng”, nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện rất đậm nét trong những phim truyện giàu tính sử thi.
Đời sống tâm hồn con người Việt Nam trình diễn. # Trong phim một cách hiền từ, tinh tế

Phim Cây khuynh diệp vô danh là chuỗi những mất mát và nỗi cô đơn trong chiến tranh, sự tàn khốc, khốc liệt của những chiến tranh không chỉ ở tiền phương mà cả ở hậu phương trong sự đợi, cô đơn, khát khao, xâu xé của những người vợ, người mẹ, người cha có người nhà nơi mặt trận.
Những phim truyện đã tập kết phản chiếu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, như Lửa trung tuyến, Vợ chồng A Phủ, Con chim vành khuyên, Người đội viên trẻ, Nguyễn Văn Trỗi, Nổi gió, Lửa rừng, Tiền tuyến gọi, Chị Nhung, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Bài ca ra trận …. Ở một số phim, sự phối hợp giữa tính đương đại và tính dân tộc còn chưa nhuần nhuyễn, làm giảm sức mạnh của hình tượng và sự thuyết phục của tác phẩm.
Được xây dựng từ một cốt truyện hoàn chỉnh, hoặc được gợi ý hoặc chuyển thể từ tác phẩm văn chương, nhân vật trong phim truyện bao giờ cũng được xây dựng theo hai tuyến rõ rang đối chọi với nhau như “nước với lửa”: chính diện và phản diện, chính và tà, trung và nịnh, thiện và ác…Kết thúc phim thường có hậu.
Điều quan trọng là tinh thần nhân bản của phim Việt được trình bày theo tâm hồn, cốt cách Việt Nam, tạo nên nét đặc sắc của tác phẩm… Trong hình thức bộc lộ, tính dân tộc không chỉ bộ lộ một chiều “tô hồng” nhằm suy tôn con người chuyên cần trong cần lao, gan góc trong đương đầu mà còn phơi bày cả những tiêu cực của con người, mặt trái của xã hội.
Bản sắc dân tộc biểu thị sâu sắc trong dòng phim cổ trang với một trong những bộ phim được đáng giá cao về mặt nghệ thuật cũng như diễn xuất là phim Đêm hội Long Trì. Thập niên 80-90 của thế kỷ trước là thời kỳ “hoàng kim” của phim truyện với nhiều đề tài, gồm: Ván bài lật ngửa, Làng Vũ Đại ngày ấy, Bao giờ cho đến tháng Mười, Thằng Bờm, Đêm hội Long Trì, Kiếp phù du, Số đỏ, Vị đắng ái tình, Nước mắt học sinh, Hoa ban đỏ … Từ năm 2000 đến nay, phim sản xuất tại Việt Nam và phim sinh sản tại nước ngoài nhưng có sự tham dự của người Việt, nội dung cốt yếu xoay quanh các vấn đề của người Việt như: Mùa hè chiều thẳng đứng, Vật đổi sao dời, Mê thảo thời vang bóng, ca ve, Mùa len trâu, Đường thư, Những cô gái chân dài, Thời xa cách, Hà Nội Hà Nội, Sống trong sợ hãi, Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Nụ hôn thần chết, Cô dâu đại chiến, Hot boy nổi loạn, và câu chuyện về thằng Cười, cô đĩ và con vịt, Mỹ nhân kế … Trong điện ảnh, tính điện ảnh được xét trên hai mặt: Tự giác và tự phát.
Đây không phải là đặc trưng riêng của Việt Nam, song tính nhân bản lại mang tâm hồn dân tộc của chính nhà nước đó. Tuy vẫn mang âm hưởng chiến tranh, nhưng một số phim truyện đã đề cập và đi sâu phân tích những bi kịch cá nhân, thân phận con người trong và sau chiến tranh.
Sau năm 1975, không khí hân hoan của sơn hà hòa bình, hợp nhất đã tạo nên môi trường kích thích và đòi hỏi cao sự sáng tạo của người nghệ sỹ, đặc biệt tính dân tộc trong cảm hứng giang sơn thống nhất.
Kể từ bộ phim truyện nhựa trước nhất của miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 và cũng là bộ phim truyện trước hết của Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân, Hãng phim truyện Việt Nam) ra đời cho đến nay có thể thấy phim truyện đã thể hiện ở sâu sắc tâm hồn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử và chính những tác phẩm đó đã góp vào thành quả chung của điện ảnh cách mệnh Việt Nam 60 năm qua.
Phim Bao giờ cho đến tháng Mười là một bộ phim tâm lý mang đậm bản sắc dân tộc và chính bản sắc dân tộc bộc lộ sâu sắc đó đã tạo nên thành công của điện ảnh Việt Nam những năm đầu thập niên 1980. Phim Áo lụa Hà Đông trình diễn. Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống linh tính trong mối quan hệ khắn khít với truyền thống dân tộc.
Những vui buồn, thở than, day dứt của những con người hậu chiến được khắc họa một cách chân thực không diễn đạt nhiều bằng lời mà bằng chính sự phức tạp của thế giới nội tâm.
Nhiều bộ phim đi theo mạch xúc cảm đó đã khiến người xem xúc động ở phía hậu đài về với những mất mát không kể xiết, như Bao giờ cho đến Tháng Mười , Truyện cổ tích cho tuổi mười bảy , Bến không chồng , Thương nhớ đồng quê (1995). Phim nhớ thương đồng quê phản ánh sự xao động đổi thay từ tâm tình đến nhịp sống bình thường của làng quê vốn êm ả sau lũy tre xanh

Nội dung tác phẩm sẽ mang tính dân tộc khi người sáng tác đề cập đến những vấn đề then chốt, quan thiết của giang san, đề đạt những suy nghĩ, tâm sự, tình cảm của những con người trong cộng đồng…Hình thức diễn tả sẽ mang tính dân tộc khi nội dung tác phẩm được chuyển tải lên màn ảnh theo đúng cách nghĩ, cách cảm của dân tộc đó, bằng hình ảnh và âm thanh đặc trưng…”.
Cách sống tế nhị, kín đáo của người Việt Nam, cùng vẻ đẹp thuần khiết mang tâm hồn Việt đã thấm vào các nhà làm phim, giúp họ sáng tạo để mô tả những diến biến tình cảm tế nhị của nhân vật.
Các nhà làm phim đã có thời kì tách khỏi cuộc chiến để chắt lcocj những chi tiết có sức nặng. Có thể thấy, tính dân tộc đa dạng về chủ đề, đồng hành cùng lịch sử dân tộc. Một số phim truyện được nhà nước đầu tư nhân các sự kiện lịch sử trọng đại, như phim Hoa ban đỏ nhân 50 năm phóng thích Điện Biên Phủ, Ký ức Điện Biên nhân 55 năm giải phóng Điện Biên Phủ, phim Hà Nội 12 sớm hôm , phim Mùi cỏ cháy nhân 40 năm phóng thích Quảng Trị… Đặc điểm trội của phim truyện chiến tranh cách mệnh là tính sử thi, hội tụ ca ngợi con người với những phẩm chất cao quý như một di sản tinh thần quý của dân tộc: lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần chiến đấu gan dạ, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp chung.
Nhiều bộ phim tạo được ấn tượng đẹp cho khán giả bởi chính tâm hồn dân tộc: Đêm hội Long Trì , Kiếp phù du , Canh bạc , Hãy tha cho em , phim Vị đắng ái tình , nhớ thương đồng quê (1995), Đời cát (1999)… Phim Canh bạc âm thầm khơi mạch nguồn cuộc sống của dân chúng.
Tiến sỹ Lê Thị Bích Hồng Phó Vụ trưởng Vụ Văn nghệ - Ban truyền đạo Trung Ương. Cảnh trong phim Gái nhảy Tính dân tộc của nghệ thuật điện ảnh biểu thị ở hai mặt là nội dung tác phẩm và hình thức mô tả.
Đã xuất hiện quan niệm sai trái, rằng để xây mái nhà chung cho cả nhân loại phải thủ tiêu dần những nét riêng của từng dân tộc, rằng điều này đúng với mọi lĩnh vực không loại trừ cả văn hóa, văn nghệ. Tư duy của người sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu nối giữa truyền thống và hiện đại”.
Điện ảnh thời kỳ đổi mới có những miêu tả phong phú của tính đương đại và tính dân tộc. Tính sử thi “nhạt dần” nhường cho nhân tố sử thi để từ đó hé mở thân phận con người cùng những mất mát, hy sinh.
Những phẩm chất được phản chiếu trong phim liên tưởng đến đặc điểm của tính dân tộc và tính đương đại, nhưng có điều phạm vi của nhiều tác phẩm, nhất là phim chiến tranh cách mạng của chúng ta mới dừng ở phạm vi nội địa, mà chưa vươn tầm ảnh hưởng quốc tế.
Phim cổ trang chưa phải là thế mạnh của chúng ta, song một số bộ phim cổ trang lấy đề tài từ văn chương dân gian, văn chương trung đại đã phần nào cho thấy bóng dáng dân tộc. Nhân vật xây dựng qua loa, cứng nhắc, thường theo mẫu số chung, đại diện cho cái chung, ít cá tính sáng tạo. Tư duy của người sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở nên chiếc cầu nối giữa truyền thống và đương đại.
Đặt trong bất kỳ một thời kỳ lịch sử nào, phim truyện đã mô tả bao yếu tố đó ở chủ nghĩa anh hùng cách mệnh với ý thức yêu nước, sẵn sang hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, ở chủ nghĩa anh hùng bình dị với cuộc sống giản dị, bình thường, sự gắn bó với ông bà tiên tổ, mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa gia đình và xã hội; ở chủ nghĩa nhân văn cao cả.
Nhiều phim truyện ra đời, đa dạng hơn chủ đề: Phim Sao Tháng Tám, Ngày lễ Thánh, Mối ngành ngọn (1977), Tiếng gọi phía trước, Hà Nội mùa chim làm tổ (1978), Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Tự thú trước rạng đông (1979).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét