Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013

Có hay không việc mớm cung, ép cung, dụ cung?

Không phải cứ thay đổi lời khai là bị ép cung

Thưa ông việc bị can, bị cáo luôn đổi thay lời khai trong quá trình tố tụng, đã gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?

Điều đó không hoàn toàn đúng, bởi lẽ theo quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì nghĩa vụ chứng minh phạm nhân thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc thay đổi lời khai trong quá trình tố tụng là quyền của đương sự, song với nghĩa vụ và bổn phận chứng minh thì cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải chứng minh, làm rõ việc đổi thay lời khai của bị can bị cáo trong suốt quá trình tiến hành tố tụng để làm minh bạch sự thực khách quan của vụ án.

Để coi xét đánh giá bằng chứng một cách toàn diện, hợp với các bằng cớ khác của vụ án nhằm chứng minh có, hay không có hành vi phạm tội, nếu như có sự đổi thay lời khai theo hướng chối tội của bị can bị cáo mà không thích hợp với sự thật khách quan của vụ án thì người tiến hành tố tụng cần diễn tả bản lĩnh cũng như nghiệp vụ của mình để chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo.

Ông Nguyễn Chiến - Phó tổng thư ký Liên đoàn trạng sư Việt Nam.

Nếu xét thấy việc bị can bị cáo đổi thay lời khai theo hướng nhận tội nhưng lại thiếu cứ, cũng cần phải xem xét có sự ép cung hoặc có bị sự tác động nào đó trong quá trình tố tụng hay không. Vấn đề này thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Việc bị can, bị cáo không nhận, có nhận hoặc thay đổi lời khai trong quá trình tố tụng theo tôi, cũng không làm ảnh hưởng nhiều tới việc điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng rõ ràng điều này càng buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập đầy đủ bằng chứng kết tội cũng như gỡ tội để đánh giá khách quan những lời khai cũ và mới để xác định đúng bản tính của vụ án, đảm bảo tính vô tư lự, khách quan trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Có quan điểm cho rằng các cơ quan tiến hành tố tụng thường quan tâm đến bằng chứng kết tội mà bỏ qua các bằng cớ gỡ tội trong việc thu thập bằng cớ, đánh giá bằng chứng dẫn đến việc làm méo mó hồ sơ. Ông nhận xét thế nào về quan điểm này?

Theo quy định tại Điều 63 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thu thập bằng cớ kết tội và bằng cớ gỡ tội, trên cơ sở đánh giá chứng cứ một cách khách quan toàn diện: Lời khai của bị can, bị cáo; lời khai của người bị hại, người chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng; kết luận thẩm định để chứng minh việc điều tra, truy tố, xét xử có cứ hay không.

Tuy nhiên trên thực tại, cũng có một số trường hợp thiên về chứng cứ cáo buộc, ít quan tâm đến chứng cứ gỡ tội điều đó có thể dẫn đến việc đánh giá không đúng về tội danh, bỏ lọt tù hãm, làm oan người vô tội.

Giải pháp

Dư luận cho rằng việc làm méo mó hồ sơ có liên tưởng điến việc mớm cung, ép cung, dụ cung. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Việc có hay không dụ cung, mớm cung, ép cung cần phải dựa trên bằng chứng, có căn cứ pháp luật. Còn việc méo mó hồ sơ thì có nhiều căn nguyên. Trên thực tế, tại một số phiên tòa, có bị cáo phản cung, đổi thay lời khai... Để lý giải cho việc phản cung, thay đổi lời khai đó, bị cáo cho rằng mình bị mớm cung, dụ cung, ép cung. Nhưng lời khai của họ tại tòa thường được đánh giá là không có cứ bởi việc lấy lời khai chỉ diễn ra giữa điều tra viên và bị cáo, không có người chứng kiến. Do đó những bản cung có sự dự của người bào chữa, như Luật sư, kiểm sát viên cho bị can trong tuổi điều tra sẽ khắc phục được tình trạng này và bảo đảm sự vô tư khách quan trong quá trình điều tra.

Luật pháp Việt Nam ngăn cấm việc dùng nhục hình, nếu xảy ra việc mớm cung, dụ cung, ép cung, những hành vi này, tùy theo chừng độ vi phạm, nhẹ là kỷ luật, nặng thì phải truy cứu nghĩa vụ hình sự...

Xin cảm ơn ông!

Điều 299. Tội bức cung

1. Người nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử mà bằng các thủ đoạn trái luật pháp buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thực gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất mực từ một năm đến năm năm.

THU HÀ(thực hiện)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét