Làm rơi bé từ xe đẩy xuống đất là một tai nạn nhưng cũng có thể được xem là một sự cố y học. May mà các bé không hề hấn, chứ với thân còn quá non nớt của một trẻ lọt lòng, chuyện gì cũng có thể xảy ra và hậu quả thật khó gánh. Cho nên, việc cáo buộc viên chức có lỗi và ra mức phạt cho người này được xem là nhằm nhắc nhỏm những nhân viên khác phải có bổn phận và kiêm toàn công việc hơn. Nhưng để hạn chế sự cố y học trong điều trị, cách giải quyết của lãnh đạo bệnh viện Phụ sản Hà Nội lại thiếu thuyết phục, thậm chí là hoàn toàn sai lầm. Thật vậy, theo giáo sư tâm lý nổi tiếng người Anh James Reason, trước một sai sót do con người tạo ra, người ta có hai cách tiếp cận khác nhau: “tiếp cận con người”, chú trọng việc kết tội và trừng phạt cá nhân mắc tội lỗi, và “tiếp cận hệ thống”, chú trọng nhận diện những nhân tố của hệ thống góp phần tạo ra sai lầm. Nếu cách tiếp cận sau tạo ra được những biện pháp ngăn ngừa sự việc lặp lại, thì cách tiếp cận đầu – “văn hóa cáo buộc” (culture of blame) – chỉ tạo ra tâm lý giấu sơ sót, ngại mỏng sơ sót và điều này có thể khiến cho sự cố có thể lặp lại ở một cá nhân chủ nghĩa khác hoặc một khoa khác. Các khảo sát tại Mỹ vào cuối thế kỷ 20 cho thấy sự cố y học không thể được nhận diện và ngăn chặn vì nó không được thưa. Thật vậy, người ta thấy các điều dưỡng ngại ít sai sót của mình hoặc của người khác vì thủ tục ít rườm rà, lo ngại ít dẫn đến thay đổi và đặc biệt là “sợ kiện cáo”. Thế nhưng, theo viện y học Hoa Kỳ, “thách thức lớn nhất để hướng về một hệ thống sức khỏe an toàn là thay đổi văn hóa kết tội cá nhân phạm sai trái thành văn hóa xem sai lầm không phải là tội cá nhân và là dịp để cải thiện hệ thống và ngăn ngừa đe dọa”. Sự cố y học này thật sự là câu chuyện đáng quan tâm ở nước ta khi dồn dập trên các phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện những thông tin mổ nhầm, mổ sót hay tai biến chết người trong các cơ sở y tế. Nhưng sau những sự cố như thế, cách xử lý thân thuộc của nhiều lãnh đạo bệnh viện là trút bổn phận lên cá nhân chủ nghĩa mắc sai lầm để xoa dịu dư luận, chứ không nhận nghĩa vụ cao nhất về mình và tiếp cận vấn đề một cách hệ thống. Có người xem câu chuyện làm rơi năm em bé vừa qua là hy hữu, nhưng thông báo từ một tờ báo cho thấy đó là chuyện lặp lại, bởi cách đây một năm có người cũng chứng kiến hai em bé bị rơi khi di chuyển bằng chiếc xe đẩy như thế. Như thế, sự việc lần này hoàn toàn có thể ngăn ngừa nếu bệnh viện quan tâm và đưa ra những giải pháp phòng ngừa đúng mức. Thật ra, không chỉ nước ta mà mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến sự cố y học, bởi việc thực hành y học ở thế kỷ 21 ngày một phức tạp, khiến bệnh nhân phải xúc tiếp nhiều hơn với nguy cơ trong khám chữa bệnh. Tại các nước phát triển, sự cố y học chiếm tỷ lệ 3,2 – 16,6% tổng số bệnh nhân nhập viện. Còn ở những nước đang phát triển, một nghiên cứu đăng trên British Medical Journal (2012) cho thấy tỷ lệ này ở tám quốc gia châu Phi (Ai Cập, Jordan, Kenya, Morocco, Tunisia, Sudan, Nam Phi và Yemen) từ 2,5 – 18,4% tùy mỗi nhà nước, trong đó 83% sự cố có thể đề phòng được và 30% sự cố dẫn đến tử vong. Tại nước ta, dù chưa có một nghiên cứu khảo sát nào ở tầm quốc gia, nhưng có nhẽ sự cố y học cũng khó nằm ngoài tỷ lệ trên vì khái niệm an toàn bệnh nhân mới được các nhà quản lý y tế chú ý vài năm gần đây. Giữa tháng này, bộ Y tế đã ban hành thông tư 19/2013/TT-BYT, chỉ dẫn thực hành quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện. Có thể xem đây là bước tiến trong thay đổi nhận thức của giới quản lý y tế về an toàn bệnh nhân, qua đó hy vọng giảm thiểu đến mức thấp nhất sự cố y học tại nước ta. Tuy nhiên, để mọi chuyện được như mong đợi, thiết nghĩ bộ Y tế cần hướng đến một giải pháp thiết thực đó là thiết lập một hệ thống thưa sự cố y học tình nguyện như các nước trên thế giới. Muốn như thế, cần có giải pháp loại bỏ “văn hóa kết tội” ra khỏi các cơ sở y tế, xây dựng một môi trường tin, tương trợ lẫn nhau và khuyến khích mọi viên chức y tế cùng tham dự xây dựng “văn hóa an toàn bệnh nhân”. “Một cách để cải thiện chất lượng điều trị và ngăn chặn sơ sót y học là học hỏi từ những sai sót y học”, đó là nhận định chí lý của bác sĩ người Mỹ Lucian L. Leape. Phan Sơn |
Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013
An toàn bệnh nhân, không thể trông mới đợi vào “văn hóa buộc tội”
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét